"There are in the Himalayas, the king of mountains, difficult, uneven areas where neither monkeys nor human beings wander.




Này các Tỷ-kheo, tại núi chúa Tuyết sơn có khoảnh đất gồ ghề, không thăng bằng, chỗ ấy không có các loài vượn, loài người qua lại.

 

There are difficult, uneven areas where monkeys wander, but not human beings.



Này các Tỷ-kheo, tại núi chúa Tuyết sơn có những khoảng đất ghồ ghề, không bằng phẳng, chỗ ấy chỉ có loài vượn qua lại, không có loài người.

 

There are level stretches of land, delightful, where both monkeys and human beings wander. In such spots hunters set a tar trap in the monkeys' tracks, in order to catch some monkeys. Those monkeys who are not foolish or careless by nature, when they see the tar trap, will keep their distance. But any monkey who is foolish & careless by nature comes up to the tar trap and grabs it with its paw, which then gets stuck there. Thinking, 'I'll free my paw,' he grabs it with his other paw. That too gets stuck. Thinking, 'I'll free both of my paws,' he grabs it with his foot. That too gets stuck. Thinking, 'I'll free both of my paws and my foot,' he grabs it with his other foot. That too gets stuck. Thinking, 'I'll free both of my paws and my feet as well,' he grabs it with his mouth. That too gets stuck.



Tại núi chúa Tuyết sơn, có những khoảnh đất bằng phẳng, khả ái. Tại chỗ ấy có các loài vượn và loài người qua lại. Tại đấy, này các Tỷ-kheo, những người thợ săn đặt các bẫy nhựa (lepam) trên những con đường có vượn qua lại để bắt các con vượn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, những con vượn nào tánh không ngu si, không tham ăn, thấy bẫy nhựa ấy liền tránh xa. C̣n con vượn nào ngu si, tham ăn, thấy bẫy nhựa ấy, tḥ tay nắm lấy và bị dính vào đấy. "Ta sẽ gỡ bàn tay ra", nó tḥ bàn tay thứ hai nắm lấy và bị dính ở đấy. "Ta sẽ gỡ hai tay ra", nó giơ chân nắm lấy và bị dính ở đấy. "Ta sẽ gỡ hai bàn tay và bàn chân ra", nó giơ bàn chân thứ hai nắm lấy và bị dính ở đấy. "Ta sẽ gỡ cả hai tay và hai chân", nó dùng miệng ngậm lấy và bị mắc dính ở đấy.

 

So the monkey, snared in five ways, lies there whimpering, having fallen on misfortune, fallen on ruin, a prey to whatever the hunter wants to do with him. Then the hunter, without releasing the monkey, skewers him right there, picks him up, and goes off as he likes.



Như vậy, này các Tỷ-kheo, con vượn bị bắt năm chỗ, liền rên la nằm xuống, rơi vào bất hạnh, rơi vào khổ năo, bị người thợ săn muốn làm ǵ th́ làm. Này các Tỷ-kheo, người thợ săn đâm chết nó, nướng nó trên đống than củi, và ra đi, theo sở thích của ḿnh.

 

"This is what happens to anyone who wanders into what is not his proper range and is the territory of others.



Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, là người đi đến chỗ không phải hành xứ của ḿnh, chỗ cảnh giới của người khác.

 

"For this reason, you should not wander into what is not your proper range and is the territory of others. In one who wanders into what is not his proper range and is the territory of others, Mara gains an opening, Mara gains a foothold. And what, for a monk, is not his proper range and is the territory of others? The five strands of sensuality. Which five?
-Forms cognizable by the eye — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing.
-Sounds cognizable by the ear...
-Aromas cognizable by the nose...
-Flavors cognizable by the tongue...
-Tactile sensations cognizable by the body — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing.
These, for a monk, are not his proper range and are the territory of others.



Này các Tỷ-kheo, đi đến chỗ không phải hành xứ của ḿnh, chỗ cảnh giới của người khác, Ác ma nắm được cơ hội, Ác ma nắm được đối tượng. Này các Tỷ-kheo, chỗ nào không phải hành xứ của Tỷ-kheo? Chỗ nào là cảnh giới của người khác? Chính là năm dục công đức. Thế nào là năm?

-Có các sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ư, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn.
-Có các tiếng do tai nhận thức...
-Có các hương do mũi nhận thức...
-Có các vị do lưỡi nhận thức...
-Có các xúc do thân nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ư, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn.
Này các Tỷ-kheo, đây là chỗ không phải hành xứ của Tỷ-kheo, chỗ cảnh giới của người khác.

 

"Wander, monks, in what is your proper range, your own ancestral territory. In one who wanders in what is his proper range, his own ancestral territory, Mara gains no opening, Mara gains no foothold. And what, for a monk, is his proper range, his own ancestral territory? The four frames of reference. Which four?
-There is the case where a monk remains focused on the body in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world.
-He remains focused on feelings in & of themselves...
-He remains focused on mind in & of itself...
-He remains focused on mental qualities in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. This, for a monk, is his proper range, his own ancestral territory."

Này các Tỷ-kheo, hăy đi đến chỗ hành xứ của ḿnh, chỗ cảnh giới của cha mẹ ḿnh. Này các Tỷ-kheo, đi đến chỗ hành xứ của ḿnh, đến cảnh giới của cha mẹ ḿnh, thời Ác ma không nắm được cơ hội, không nắm được đối tượng. Và này các Tỷ-kheo, chỗ nào là chỗ hành xứ của Tỷ-kheo? Chỗ nào là cảnh giới của cha mẹ? Chính là bốn niệm xứ. Thế nào là bốn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo:
-Trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời;
-Trú, quán thọ trên các thọ...;
-Trú, quán tâm trên tâm...;
-Trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Này các Tỷ-kheo, đây là chỗ hành xứ của ḿnh, chỗ cảnh giới của cha mẹ ḿnh.

 

See also: SN 47.6

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang kế | trở về đầu trang | Home page |